Trả lời Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh về việc chứng từ thanh toán qua ngân hàng liên quan đến khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Căn cứ hướng dẫn tại Điều 16 Thông tư số 219/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT;
Căn cứ hướng dẫn tại Điều 8, Điều 9 Thông tư số 46/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt thì mẫu chứng từ thanh toán ủy nhiệm chi/ủy nhiệm thu bao gồm chỉ tiêu: “Tên, địa chỉ số hiệu tài khoản thanh toán của bên trả tiền;”;
Tổng cục Thuế (trên cơ sở tổng hợp ý kiến của Ngân hàng Nhà nước tại các Công văn số 6615/NHNN-TCKT ngày 10/9/2014 và số 9117/NHNN-TCKT ngày 08/12/2014; cũng như được sự đồng ý của Bộ Tài chính) đã ban hành Công văn số 5806/TCT-KK ngày 24/12/2014 (và Công văn số 874/TCT-KK ngày 12/3/2015) hướng dẫn về chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt (thanh toán qua ngân hàng), trong đó điểm 1(c) Công văn số 5806/TCT-KK hướng dẫn chứng từ thanh toán qua ngân hàng được xét khấu trừ, hoàn thuế GTGT phải có thông tin “số hiệu tài khoản thanh toán của người trả (hoặc chuyển) tiền;”.
Căn cứ các hướng dẫn trên, trường hợp khách hàng nước ngoài thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam qua ngân hàng bằng hình thức thư tín dụng (L/C), nhưng thực tế chứng từ thanh toán qua ngân hàng của ngân hàng phục vụ doanh nghiệp Việt Nam thể hiện tài khoản ngân hàng phía nước ngoài chuyển tiền thanh toán không phải là tài khoản ngân hàng của khách hàng nước ngoài hoặc tài khoản ngân hàng của bên thứ ba là tổ chức, cá nhân ở nước ngoài thực hiện thanh toán theo ủy quyền của khách hàng nước ngoài thể hiện trên hợp đồng xuất khẩu (phụ lục hợp đồng hoặc văn bản điều chỉnh hợp đồng - nếu có) có liên quan theo hướng dẫn tại Điểm b.3 Khoản 3 Điều 16 Thông tư số 219/2013/TT-BTC thì chứng từ thanh toán qua ngân hàng này không đủ điều kiện để được xét khấu trừ, hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa,dịch vụ xuất khẩu.
Tải về tại đây:
Công văn 3352/TCT-KK ngày 22/08/2019
Thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu